Lịch sử 70 năm phát triển của ngành GTVT Việt Nam
Kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Quyết định thành lập Bộ Giao thông công chính (28/8/1945) đến nay, Ngành GTVT Việt Nam đã trải qua gần 70 năm tồn tại và phát triển, gắn liền với sự nghiệp Cách mạng của đất nước với nhiều thời kỳ sôi nổi, hào hùng.
Giai đoạn 1945 - 1954: GTVT phục vụ kháng chiến chống thực dân Pháp

để phục vụ kháng chiến chống Pháp
Thời kỳ mới thành lập Bộ Giao thông công chính đứng trước những khó khăn rất nặng nề với 6 nhiệm vụ rất căn bản: (1) Vận tải quân, lương phục vụ cho kháng chiến Nam Bộ và các chiến trường khi cuộc kháng chiến toàn quốc nổ ra (12.1946); (2) Phá hoại cầu đường ngăn chặn quân địch tiến quân đánh chiến các vùng tự do, các căn cứ kháng chiến với âm mưu đánh nhanh thắng nhanh; (3) Thiết lập các đường dây giao liên, giữ giao thông liên lạc thông suốt các miền Bắc - Trung - Nam phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Chính phủ; (4) Sửa chữa, mở đường các vùng tự do, vùng kháng chiến và đi sâu vào các vùng hậu cứ của địch để phục vụ các chiến dịch đánh địch trên khắp các chiến trường đồng thời gia tăng phục vụ sản xuất; (5) Vận tải hàng hoá, hành khách, vận chuyển lương thực, quân đội tham gia các chiến dịch tấn công giai đoạn 1945 - 1954; (6) Làm nhiệm vụ quốc tế chi viện cho Lào, Campuchia v.v.

Thành tựu nổi bật của Ngành Giao thông công chính thời kỳ này là đã cùng toàn dân tham gia thực hiện các phong trào do Chính phủ phát động và chỉ đạo như “Tiêu thổ kháng chiến”: Phá đường, cầu, cống và các hệ thống giao thông khác để ngăn chặn địch vận chuyển lương thực, thực phẩm, súng đạn.. Hàng ngàn các đoạn, các cung đường bộ, hàng trăm cầu lớn đã bị phá huỷ và trở thành vật cản ngăn chặn sự xâm lược của địch. Một thành công lớn của ngành giao thông thời kỳ này là công tác mở đường phục vụ các chiến dịch tiến tới chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Tuy không được đầu tư nhiều về tài chính nhưng sức dân, sự đoàn kết và dũng cảm của toàn quân, toàn dân đã mở ra những kỳ tích của ngành giao thông.
Giai đoạn 1954 - 1964: GTVT xây dựng CNXH ở miền Bắc và chi viện cho miền Nam

cắt băng khánh thành cầu Việt Trì (1957)
Nhiệm vụ lớn nhất của Ngành GTVT trong thời kỳ này là khôi phục lại hệ thống giao thông đã bị phá hỏng trong Kháng chiến chống Pháp để phục vụ phát triển kinh tế miền Bắc và chi viện cho chiến trường miền Nam. Trong 10 năm (1954 - 1964) hệ thống đường sắt miền Bắc đã được xây dựng và khôi phục lại với những tuyến đường chính là Hà Nội - Lào Cai, Hà Nội - Hải Phòng, Hà Nội - Lạng Sơn. Những tuyến đường này đã có vai trò quan trọng phục vụ đi lại, khôi phục kinh tế miền Bắc trong nhều năm thời điểm đó và còn phát huy tác dụng đến bây giờ. Một tuyến đường sắt khác được xây dựng là Hà Nội - Thái Nguyên cũng hoàn thành trong giai đoạn này. Về giao thông đường bộ, đường thuỷ cũng được Nhà nước đầu tư xây dựng mới nhiều tuyến quốc lộ phía Bắc và một số cảng sông cũng hình thành, trong đó cảng Hải Phòng có vai trò lớn nhất trong vận chuyển hàng hoá phía Bắc và giao thương với nước ngoài. Nhiều cây cầu mới, con đường mới có tính huyết mạch cũng đã được mở mang xây dựng vừa bằng sức dân, vừa có sự đầu tư của Nhà nước. Ngành GTVT còn tham gia thi công các sân bay như: Nội Bài (trước đây gọi là Đa Phúc), Hoà Lạc (Hà Tây), Vinh (Nghệ An) và sân bay Kép (Bắc Giang). Nhìn chung, thời kỳ này Việt Nam đã hình thành một mạng lưới giao thông tuy không hiện đại nhưng bước đầu phục vụ tốt nhịêm vụ của thời kỳ cách mạng mới.

đường sắt Hà Nội - Mục Nam Quan và
cầu Phủ Lạng Thương (Bắc Giang) ngày 25/1/1955
Trong lĩnh vực vận tải, các ngành vận tải đường bộ, đường sông, đường sắt đều có nhiều bước phát triển vượt bậc so với trước năm 1954. Vận tải đường sắt trong 10 năm (1954 - 1964) đã đảm nhận trên 20% khối lượng vận chuyển toàn ngành, thực hiện sản lượng luân chuyển hàng hoá trên 50%. Vận tải đường bộ đã đảm nhiệm từ 30 - 40% khối lượng vận chuyển hàng hoá và hành khách cả nước với đội ngũ các xí nghiệp vận tải hành khách và hàng hoá quốc doanh. Công nghiệp GTVT được hình thành với một số chuyên ngành tuy còn hạn hẹp nhưng đã tự túc sản xuất được một số mặt hàng phục vụ ngành. Trong công nghiệp GTVT thời kỳ này, nổi bật nhất là Nhà máy toa xe lửa Gia Lâm đã đã hình thành được nhiều phân xưởng quan trọng làm tiền đề cho công nghiệp đóng tàu đường sắt sau này như phân xưởng sửa chữa đầu máy, đóng mới toa xe, rèn, đúc v.v.

khánh thành đầu máy Tự Lực mang tên "Nguyễn Văn Trỗi"


đường mới phục vụ phát triển kinh tế - xã hội miền núi
Giai đoạn 1964 - 1975: GTVT chống chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ và chi viện cho giải phóng miền Nam

Những sự kiện nổi bật ghi dấu ấn của Ngành trong giai đoạn này là đường mòn Hồ Chí Minh lịch sử với phong trào “Tất cả vì miền Nam thân yêu” do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ kính yêu, Ngành GTVT Việt Nam đã lập nên những kỳ tích huy hoàng, góp phần quan trọng vào chiến thắng của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ oanh liệt. Ngành GTVT đã đi đầu trong cuộc kháng chiến với tất cả những con đường có thể mở được, từ đường mòn Hồ Chí Minh trên bộ đến đường đường mòn Hồ Chí Minh trên biển. Những “con đường mòn” này về cơ bản vẫn dựa vào sức dân là chủ yếu song đã đóng vai trò quan trọng, nhất là trong việc vận chuyển lương thực, thực phẩm, vũ khí cho chiến trường miền Nam. Lịch sử sẽ còn nhắc lại những chiến công dũng cảm của cán bộ chiến sĩ, nhân viên Ngành GTVT với các sáng kiến đã đi vào huyền thoại trong cả vận tải đường bộ, đường thuỷ và hàng không.

sửa chữa đường bảo đảm giao thông ở Quảng Bình
Với ngành đường sắt, trong giai đoạn 1964 - 1975 đã liên tục đảm bảo giao thông suốt trong điều kiện địch đánh phá dữ dội. Ngành Đường sắt đã làm 3.915 mét cầu tạm, 82km đường và 274,5km dây thông tin và vận chuyển được 4,16 triệu tấn hàng hoá. Cán bộ, nhân viên và tự vệ ngành đường sắt đã bắn rơi hàng chục máy bay các loại và dò phá được hàng ngàn quả bom nổ chậm ở các chiến trường trọng điểm miền Nam. Với ngành vận tải ô tô đã hình thành 5 công ty vận tải hỗn hợp có tổng 1.271 xe phục vụ chủ yếu chiến trường miền Nam. Ngành vận tải đường biển với những con tàu “không số” trên đường mòn Hồ Chí Minh trên biển đã lập hàng trăm kỳ tích mà cho đến tận bây giờ vẫn chưa được nhiều người biết tới.

Hồng Hà sau chuyến mở luồng Nhật Bản thắng lợi trở về

Đồng Lộc, một trong những địa điểm bị đánh phá ác liệt nhất

Những người đứng đầu Ngành GTVT giai đoạn này là Bộ trưởng Dương Bạch Liên và Bộ trưởng Phan Trọng Tuệ - các Bộ trưởng đã ghi dấu ấn đậm nét trong Ngành với các chiến công làm rạng rỡ truyền thống Ngành GTVT sau này.
Giai đoạn 1975 - 1985: GTVT trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN



Về hoạt động vận tải đường sắt: trong giai đoạn này đã khánh thành tuyến đường sắt Bắc - Nam với sự kiện ngày 13/12/1976 chuyến hàng từ TPHCM ra Hà Nội và chuyến tàu chở Apatít phục vụ nông nghiệp đã từ Hà Nội lên đường vào TPHCM. Vận tải đường sắt cũng đã khai thông tuy năng lực chuyên chở vẫn còn hạn chế.

đi kiểm tra cầu đường sắt bắc qua sông Trà Khúc (1977)

sang Cuba và thực hiện chạy vòng quanh trái đất (1982)

Chính phủ Phần Lan làm lễ bàn giao giai đoạn 1 - xây dựng
Nhà máy sửa chữa tàu biển Phà Rừng (1984)
Giai đoạn 1986 đến nay: GTVT góp phần quan trọng vào công cuộc phát triển đất nước thời kỳ Đổi mới

Tiếp sau đó, Nghị quyết các Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (1991), lần thứ VIII (1996) đã xác định những mục tiêu lớn của Ngành GTVT. Đó là: “Khắc phục tình trạng xuống cấp của hệ thống giao thông hiện có; khôi phục, nâng cấp và mở rộng thêm một số tuyến giao thông trọng yếu, kết hợp giao thông với thuỷ lợi, tận dụng giao thông đường thuỷ; mở thêm đường đến các vùng sâu, vùng xa ; cải thiện giao thông ở các thành phố lớn. Cải tạo, nâng cấp một số cảng sông, cảng biển, sân bay; xây dựng dần cảng biển nước sâu’’.

Việt Nam thiết kế và thi công, được thông xe ngày 10/03/1994
Thực hiện chủ trương và những mục tiêu mà Đảng đề ra, toàn Ngành GTVT đã có nhiều cố gắng, huy động và phát huy nhiều nguồn lực phục vụ công cuộc phát triển Ngành. Có thể chia ra 2 giai đoạn chính trong thời kỳ này :
Từ 1986 đến 1995:

Trong giai đoạn này, Bộ GTVT đổi tên thành Bộ GTVT và Bưu điện sau khi Tổng cục Bưu điện và Cục Hàng không dân dụng sáp nhập vào Bộ GTVT. Một số nhiệm vụ chính của Bộ GTVT và Bưu điện trong giai đoạn này là: (1) Về vận tải: Tập trung chỉ đạo các ngành vận tải kiên quyết thực hiện mục tiêu vận tải đối với các mặt hàng quan trọng trong nền kinh tế như than, phân bón, hàng xuất nhập khẩu; đồng thời phục vụ các nhu cầu đời sống xã hội như: lương thực, hàng tiêu dùng thiết yếu, hàng lên miền núi ... (2) Trong sản xuất công nghiệp tập trung nâng cao chất lượng sản phẩm, áp dụng tiến bộ kỹ thuật để nghiên cứu, thiết kế và sản xuất những mặt hàng mới như trạm trộn nhựa, lu bánh lốp, lu diezen và tập trung vào hai khâu lớn là sửa chữa tàu biển, phương tiện thiết bị công trình lắp ráp ô tô, sửa chữa đầu máy và đóng toa xe ... (3) Về xây dựng cơ bản: kiên quyết dành vốn và các điều kiện khác cho những công trình trọng điểm và các công trình có khả năng hoàn thành để đưa vào khai thác. Công tác duy tu, quản lý đường bộ, chất lượng công trình được coi trọng. (4) Về thông tin liên lạc: Hoàn thành một số tuyến vi ba từ Hà Nội đi các tỉnh và nhất là công tác thông tin phục vụ hoạt động của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các kỳ họp Quốc hội.

Trong 10 năm đầu quá trình đổi mới, ngành đường bộ đã hoàn thành một số tuyến đường, cây cầu có tầm vóc lớn, góp phần phát triển kinh tế xã hội như: cầu Bến Thuỷ, Thái Bình, Yên Bái, Đò Quan, Việt Trì, Tràng Tiền, Phong Châu... ; các quốc lộ như QL1, QL5, QL80, QL24. Nhiều đô thị mới cũng đã mọc lên dọc theo các tuyến đường. Giao thông miền núi, giao thông nông thông trong giai đoạn này cũng bắt đầu khởi sắc. Nhờ sự đầu tư của Nhà nước kết hợp với ngân sách địa phương và sức dân, hàng ngàn con đường liên huyện, liên xã... đã được mở ở nhiều nơi từ Bắc - Trung - Nam, tạo ra mạng lưới giao thông trải rộng trên khắp đất nước

đến dự lễ thông xe cầu Việt Trì ngày 25/5/1995
Đối với đường sắt, những kỳ tích đặc biệt về tần suất và thời gian chạy tàu cũng được lập nên trong giai đoạn này nhờ việc đầu tư nâng cấp, đóng mới phương tiện và cải thiện trình độ quản lý.

Các lĩnh vực quan trọng khác của Ngành GTVT như vận tải biển quốc tế, nội địa cũng được đầu tư hàng ngàn tỷ đồng để mở rộng các cảng; đóng mới và sửa chữa các tàu vận tải lớn. Hệ thống các doanh nghiệp thuộc Bộ có vai trò rất quan trọng trong việc sản xuất công nghiệp GTVT với việc hàng năm tạo ra hàng ngàn tỷ đồng lợi nhuận, không chỉ đóng góp và ngân sách Nhà nước mà còn góp phần vào tái đầu tư, mở rộng hoạt động của ngành trong chế tạo, lắp ráp, xây dựng công nghiệp GTVT.

tư vấn khảo sát và giám sát xây dựng.
Về mặt tổ chức, năm 1992, ngành Bưu điện và ngành Hàng không tách ra khỏi Bộ GTVT. Tuy nhiên, đến năm 2003, Cục Hàng không dân dụng trở lại trực thuộc Bộ GTVT.


an toàn chạy tàu để phục vụ vận tải Tết Quý Mùi 2003
Bên cạnh các dự án sử dụng vốn NSNN và tài trợ quốc tế, trong giai đoạn vừa qua đã nổi lên một số dự án BOT lần đầu tiên đã được hoàn thành và đưa vào sử dụng như BOT Đèo Ngang; BOT An Sương - An Lạc. Đây là tín hiệu rất đáng mừng về khả năng huy động tối đa các nguồn lực trong xã hội cho sự phát triển kết cấu hạ tầng giao thông.

Về hàng không, tất cả các cảng hàng không trên khắp cả nước đều được nâng cấp một bước, đáp ứng kịp thời nhu cầu đi lại bằng máy bay đang ngày càng gia tăng. Một số công trình quan trọng có thể kể ra như: Nhà ga T1 và đường cất hạ cánh 1B Cảng hàng không quốc tế Nội Bài; đường cất hạ cánh 25L tại Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất; nhà ga, sân đỗ, đường hạ cất cánh sân bay Vinh, nhà ga sân bay Phú Quốc ; nhà ga hành khách Cảng hàng không Phù Cát (Bình Định), hoàn thành nâng cấp Cảng hàng không Vinh, đưa vào sử dụng Cảng hàng không Côn Sơn (Bà Rịa - Vũng Tàu); khánh thành nhà ga hành khách và đài kiểm soát không lưu Cảng hàng không Điện Biên Phủ; Cảng hàng không Chu Lai...

Trong lĩnh vực vận tải, các dịch vụ vận tải đã và đang đáp ứng kịp thời những yêu cầu hết sức đa dạng của thị trường. Chưa bao giờ người dân lại đi lại dễ dàng và thuận tiện như hiện nay nay với nhiều tuyến vận tải đường bộ đi khắp nơi, tới mọi “hang cùng, ngõ hẻm” với nhiều loại ô tô hiện đại, phục vụ nhiều tiện nghi như điều hoà, tivi... Tàu hoả Bắc - Nam ngày càng nhiều chuyến hơn. Hàng không Việt Nam ngày một có thêm nhiều máy bay đời mới, hiện đại như Boeing B767, B777, Airbus A321... đưa vào khai thác nhiều tuyến bay mới cả trong nước và quốc tế. Các đội tàu biển, tàu sông của Việt Nam cũng vươn tới nhiều điểm đến trên toàn thế giới.
Từ năm 2006 đến nay, thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương, Ban Cán sự và Đảng ủy cơ quan Bộ đã tập trung nhiều biện pháp để xây dựng Đảng, hoàn thiện bộ máy điều hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý Nhà nước. Đặc biệt Đảng bộ đã có nhiều biện pháp cụ thể thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Ban Cán sự Đảng bộ đã thành lập Ban chỉ đạo, phân công nhiệm vụ cho các thành viên Ban chỉ đạo để chỉ đạo thực hiện Cuộc vận động; đã triển khai nghiêm túc và có hiệu quả tại các cơ sở đảng các cấp, Ban Cán sự cũng đã ban hành chương trình và kế hoạch cụ thể thực hiện Cuộc vận động cho từng năm. Qua 3 năm triển khai thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, đã góp phần quan trọng tạo nên những thành tựu nổi bật trên các lĩnh vực của ngành Giao thông vận tải.
Trong thời kỳ đất nước hội nhập ngày càng sâu và rộng với nền kinh tế thế giới, công tác đối ngoại giao thông vận tải cũng được tăng cường, đạt nhiều thành tựu. Ngành đã tích cực triển khai trên diện rộng các hoạt động đối ngoại cả song phương lẫn đa phương trong các lĩnh vực hàng không, hàng hải, đường sắt, đường sông và đường bộ. Quan hệ song phương với các nước láng giềng Lào, Campuchia, Trung Quốc đã được đẩy mạnh. Giao thông vận tải Việt Nam đã đạt được thoả thuận với các nước láng giềng về hầu hết các vấn đề kết nối giao thông vận tải, tạo thuận lợi cho vận tải giữa các nước, đề xuất phối hợp với các Bộ, ngành những biện pháp phù hợp đảm bảo an ninh biên giới lãnh thổ, tạo tiền đề xây dựng vành đai biên giới hoà bình, hợp tác và cùng phát triển với các nước xung quanh, góp phần củng cố môi trường hoà bình, ổn định, tăng cường sự tin cậy với các nước láng giềng.
Ngành cũng đã quan tâm thúc đẩy quan hệ với các đối tác quan trọng như Nhật Bản, Hoa Kỳ, Hàn Quốc và các nước trong Liên minh châu Âu... thông qua việc hợp tác triển khai các dự án phát triển kết cấu hạ tầng giao thông trong nước, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong lĩnh vực giao thông vận tải. Trong mối quan hệ với các tổ chức quốc tế và các diễn đàn đa phương như UNESCAP, ICAO, IMO, IRF và các tổ chức tài chính như WB, ADB, JBIC, Bộ Giao thông vận tải đã đẩy mạnh hợp tác và cùng với các cơ quan hữu quan triển khai một số hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo nguồn nhân lực cũng như xúc tiến và thực hiện các dự án kết cấu hạ tầng giao thông vận tải bằng nguồn vốn vay từ các tổ chức tài chính này.
Những năm qua, Bộ Giao thông vận tải đã được Chính phủ giao chủ trì đàm phán và đã ký kết được một số hiệp định, nghị định thư về vận tải biển, vận tải đường bộ, hàng không như giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, giữa Chính phủ Việt Nam và các nước láng giềng khác. Song song với công tác đàm phán ký hiệp định, Bộ Giao thông vận tải đặc biệt chú trọng đến việc thực hiện các cam kết về mở cửa dịch vụ giao thông vận tải cũng như triển khai các Hiệp định song phương và đa phương về tạo thuận lợi cho vận tải người và hàng hoá qua lại biên giới như Hiệp định GMS về Tạo thuận lợi cho vận tải người và hàng hoá giữa 6 nước tiểu vùng Mê Kông mở rộng và Hiệp định ASEAN về tạo thuận lợi cho hàng quá cảnh...
Công tác đào tạo của các trường trong Ngành cũng đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận: chất lượng đào tạo được đảm bảo và không ngừng nâng cao; cơ sở vật chất của các trường được củng cố và ngày càng hiện đại; ở mọi hệ đào tạo đều xuất hiện những nhân tố mới; nhiều tập thể được Đảng, Nhà nước và Bộ tặng những phần thưởng cao quý. Hệ thống mạng lưới các trường từ dạy nghề đến đại học đã được sắp xếp phù hợp với quy hoạch phát triển về giáo dục và đào tạo của đất nước. Các trường đã tích cực, chủ động thực hiện công tác đào tạo gắn với nhu cầu của xã hội và của Ngành; sử dụng các giáo cụ mới để thực hiện phương châm: “Học đi đôi với hành”; áp dụng nhiều phương pháp giảng dạy tiên tiến vào quá trình dạy và học; nâng cao tính thực tiễn trong chương trình đào tạo.
Y tế giao thông vận tải với hệ thống các bệnh viện, phòng khám và các trung tâm điều dưỡng - phục hồi chức năng - bệnh nghề nghiệp, các trung tâm y tế chuyên ngành; hàng năm Y tế giao thông vận tải thực hiện khám chữa bệnh cho hàng chục ngàn lượt bệnh nhân là cán bộ, công nhân của Ngành và nhân dân trong khu vực, đã và đang trở thành những địa điểm đáng tin cậy của cán bộ, công nhân trong Ngành và nhân dân trong cả nước.
Công đoàn ngành Giao thông vận tải đã chủ động phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả với cơ quan quản lý, động viên cán bộ, công nhân viên lao động toàn Ngành đoàn kết, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thử thách hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Công đoàn Ngành luôn nỗ lực phấn đấu để cải thiện đời sống, giảm bớt khó khăn cho cổng nhân lao động, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của Ngành và đất nước.
Công tác báo chí, xuất bản đã làm tốt vai trò là người “chiến sĩ” trên mặt trận tư tưởng - văn hoá của Đảng, hoàn thành nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến kiến thức khoa học - công nghệ chuyên ngành Giao thông vận tải, xây dựng lịch sử, truyền thống của Ngành và phản ánh được đời sống tinh thần và vật chất của cán bộ, công nhân viên ngành Giao thông vận tải.
Các lĩnh vực công tác khác của Ngành như quản lý hạ tầng giao thông, sắp xếp đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, thanh tra, kiểm tra giải quyết khiếu nại tố cáo, thực hành tiết kiệm, phòng chống tham nhũng, lãng phí cũng thu được những kết quả đáng ghi nhận.
Đây là những thành tựu hết sức quan trọng trên nhiều lĩnh vực của ngành Giao thông vận tải, trong thời gian ngắn đã làm thay đổi toàn bộ diện mạo và tầm vóc hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng của đất nước thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Qua 70 năm chiến đấu và xây dựng, hàng triệu người làm giao thông vận tải thuộc các thế hệ đã hiến dâng toàn bộ sức lực, trí tuệ, sự nghiệp và cả tính mạng của mình, tất cả vì mục tiêu bảo tồn và phát triển mạch máu giao thông của Tổ quốc. Đó là những trang sử vàng không bao giờ phai mờ trong ký ức vinh quang và hào hùng của dân tộc.
Đặc biệt, cùng với đất nước, vì đất nước mà ngành Giao thông vận tải Việt Nam ngày càng lớn mạnh. Ngành đã xây dựng được một lực lượng rất mạnh các doanh nghiệp xây dựng giao thông cũng như kinh doanh vận tải, nắm giữ và làm chủ nhiều trang thiết bị, kỹ thuật, phương tiện hiện đại và có rất nhiều kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh. Từ một điểm xuất phát rất thấp, trình độ khoa học - công nghệ của ngành Giao thông vận tải Việt Nam đã phát triển nhanh chóng; tiếp thu và làm chủ được rất nhiều công nghệ mới, hiện đại. Những thiết bị, qui trình này đã được áp dụng vào hầu hết các lĩnh vực của Ngành, từ đường bộ, đường sắt, đường sông đến hàng hải, hàng không. Đây là những vốn quí, nền tảng quan trọng để ngành Giao thông vận tải Việt Nam có thể tiến nhanh, tiếp cận và theo kịp sự phát triển của giao thông vận tải thế giới.
Qua nhiều thời kỳ phát triển, đặc biệt là trong giai đoạn đổi mới, ở tất cả các cơ quan, đơn vị trong ngành Giao thông vận tải Việt Nam đều đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm, xây dựng được phong cách tư duy năng động, sáng tạo. Đây cũng là những nền tảng quan trọng cho sự phát triển vì chủ trương đúng, lực lượng hùng hậu nhưng cần có cả những cách làm hay, sự tìm tòi và sáng tạo, thì mới phát huy hết được sức mạnh của toàn Ngành.